Friday, June 27, 2008

Nguyen Van Sung




Anh Phạm Hòa quý mến
Tôi là linh mục Phan Văn Lợi, bạn chiến đấu của linh mục Nguyễn Văn Lý, đang bị giam tại nhà tù Ba Sao. Tôi hiện đang ở Huế. Vừa rồi, một người bạn của tôi cho tôi biết có một thương phế binh VNCH đang sống khốn khổ tại Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Nay tôi tình cờ nhận được email này của Anh và lên được trang mạng do Anh phụ trách (http://thuongbinh.blogspot.com/). Thật là một cơ may. Vì thế hôm nay tôi xin gởi đến Anh tấm hình người thương binh đó, kèm thêm vài chi tiết về anh ấy (xin xem 2 attachments). Mong rằng người chiến sĩ xấu số sẽ nhận được nơi đồng đội phương xa một sự trợ giúp an ủi nào đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn Anh và hy vọng sẽ có dịp liên lạc với Anh.
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Huế, VN (16/46 Trần Phú, Huế).

Saturday, June 7, 2008

Đoàn Trung Sư Đoàn 7 Bộ Binh


SVSQ Đoàn Trung Sinh năm 1953 Khóa 8/72 Đồng Đế Nha Trang
Số Quân : 73/418219
Đơn Vị : Đại Đội 4 / Tiểu Đoàn 2 / Trung Đoàn 12
Sư Đoàn 7 Bộ Binh
Tàn phế : Cụt chân trái ngày 16/2/1975 tại chiến trường Mộc Hoá

Địa Chỉ : 85 Ngô Đức Kế Thị Xả Nha Trang Tỉnh Khánh Hòa Việt Nam


Friday, June 6, 2008

THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH

THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH
SAU 31 NĂM QUỐC HẬN
------------------------------------------------------------------------------
MƯỜNG GIANG

Phế Binh QLVNCH cấp độ tàn phế 75% có cấp dưỡng
Kính tặng tất cả TPB.VNCH và Những ân nhân đã và đang cưu mang giúp đỡ Họ.
Riêng Hội Thân Hửu Bình Thuận tại Bắc CA cùng Quý Ô. Nam Lộc-Việt Dũng và Việt Hải



Những ngày tháng tư năm đó, không biết sao mà trời bổng đổ mưa thật sớm và lớn hơn bao giờ hết. Mưa làm ngập những chiếc hố tránh đạn và giao thông hào của những người lính trận, tại các chiến trường máu lệ Phước Long, Phan Thiết, Long Khánh, Hậu Nghĩa, Long An, Phước Tuy, Biên Hòa và Sài Gòn.

Trong cơn mưa nước mắt năm ấy, có máu, thây người và xác của những cánh hoa học trò, làm nhuộm hồng áo người lính và đồng bào chiến nạn, chạy theo cơn mưa, mịt mù đạn pháo.

“ Bồ Đào mỹ tửu, dạ quang bôi
dục ẩm tỳ bà, mã thượng thôi
tuý ngọa sa trường, quân mạc vấn ?
cổ lai chinh chiến, kỹ nhân hồi ”

Bốn câu thơ cổ trong bài ‘ Lương Châu Từ ‘ của Vương Hàn (687-726), tự Tử Vũ, người Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, cũng là một trong những thi gia nổi tiếng đời nhà Đường, đã nói lên thân phận của người lính chiến, sống và chết không có biên giới, nên mấy ai dám nghỉ tới chuyện trở về ? Và giọt mưa nào đây, vừa lăn trên má, đã khiến cho người lính già bồi hồi nhớ lại, một thời chinh chiến củ, những căn hầm tránh pháo ngập mưa, những nấm đất đào đấp vội vàng, để vùi bạn vữa ngã gục và những thương binh rên xiết, đang chờ cấp cứu.

Tất cả đã thành cổ tích. Giờ chỉ còn biết ngồi đây mà nhớ lại những ngày xa củ. Chúng ta, tất cả đều là những người VN tội nghiệp, trót đầu thai lộn trong thế kỷ này, nên đã cùng nối vai lần lượt bước lên những giàn lửa đỏ. Cuối cùng, kẻ chết thì bị dầy mồ, tan xác, còn người sống, nếu không sống kiếp mây chiều lang thang, thì cũng lết lê phận bèo trong vùng giặc chiếm, để gục đầu thương hận, mà khóc cho quê hương vì đâu máu xương chất ngất, vì đâu mà kiếp sống của con người, tới nay vẫn không bằng cây cỏ bên đường.

Tất cả chỉ còn là kỷ niệm trong nhớ, vào những ngày đầu đời, mẹ bỏ con trong gánh, dầm mưa chạy loạn, giữa tiếng bom đạn, máy bay gầm thét, của Việt Minh và Pháp. Tóm lại, chúng ta đều ra đời và trưởng thành trong tiếng súng, cùng với bom đạn làm rách vở da thịt của quê hương. Rồi cũng vì người, vì ‘ tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái, mà giôc ngước cả tuổi trẻ, đời trai, vào cốc men đắng cay, uống cạn hạnh phúc của chính mình.

Đất nước hai mươi năm chinh chiến, hai mươi năm dài hờn hận, đã dày vò người lính miền Nam, trong mưa bom đạn xéo trùng hằng Rốt cục những người nằm xuống, những kẻ ra đi hay ở lại chịu cảnh ngục tù khổ sai của VC, ai nấy cũng đả trả xong cái nợ ‘ da ngựa bọc thây ‘, tủi nhìn từng trang lịch sử của nước nhà, bị giặc thù bôi nhọ và khép kín.

Trưa 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ, miền Nam VN từ bên này cầu Hiền Lương, trên sông Bến Hải, chạy ngang vĩ tuyến 17, tới mũi Cà Mâu, đã chính thức thuộc về lãnh thổ Xã Hội Chủ Nghĩa, đệ tam quốc tế cọng sản, có tổng đài ở tận Nga Sô. Viết. Cũng từ giơ phút đó, khi mà chiếc mặt nạ hòa bình của người cọng sản đã cởi, để lộ những khuôn mặt thật của các thây ma vô hồn, lạnh băng và hung hiểm, thì cũng là lúc, đồng bào mới sực tỉnh và thương tiếc người lính VNCH. Nhưng than ôi tất cả đã muộn rồi, họ đã ngã gục, không phải tại chiến trường vì đạn pháo của VC, mà ngay trên hè phố Huế, Đà Nẳng, Phan Thiết, Sài Gòn..bởi chính những viên đạn ích kỷ, hám danh, những miệng lưỡi ngòi bút, của chính phe mình.

Ai chẳng một lần về với đất ? khác chăng là sớm hay muộn, vinh với nhục và sống chết sao cho ý nghĩa của một kiếp người. Chỉ tội nhất là những người lính chưa chết nhưng coi như đã chết vì thương tật chiến trận và những vết thương lòng. Họ không chết mà chỉ bị thương nặng và tất cả đã gởi lại chiến trường một phần thịt da của mẹ, ở Khánh Dương, Tháp Chàm, Phan Thiết, Xuân Lộc..và ngay tại Sài Gòn, vào lúc mà cây cột đèn cũng muốn chạy, để khỏi bị VC giết chết. Họ ở lại làm vật hy sinh, cản xe tăng, hứng đại pháo của giặc thù, để kiếm thêm một chút thời gian, một bầu trời an toàn, một dòng sông lặng sóng, giúp cho mọi người, từ dân tới lính, bình yên di tản.

Nay thì từ quan tới lính, ai cũng kiếm cách đi khỏi quê nhà, bỏ lại những bóng ma của quá khứ và những người thương phế binh sống sót, tủi hờn, đang lê lết phận bèo khắp đầu đường xó chợ. Thời gian có thay đổi, lịch sử cũng sang trang nhưng thân phận của người thương binh và gia đình của họ, chẳng có gì mới lạ, vẫn lấy nước mắt làm mưa, rửa mặt hằng ngày. Buổi trước, khi VC tràn vào, họ bị bỏ lại ở những quân y viện, làng phế binh, không còn đại bàng, đồng đội và hậu phương. Bây giờ thì dần hồi chết đói, chết nhục trong thiên đàng xã nghĩa, trước sự xa hoa thừa mứa của VC, Việt Gian và Việt kiều muôn phương, vinh quy bái tổ, aó gấm về làng, mà trong dòng người đổi đời này, không làm sao mà đếm hết, những cấp chỉ huy và đồng đội củ.

‘ Có làm lính mới cảm thông cho kiếp lính nghiệt ngả, đoạn trường. Có làm dân thời ly loạn, mới biết được thế nào là mạng sống của con người, giữa bom đạn vô tình, héo úa còn thua cây cỏ. Có là người thương phế binh, sau khi xuất viện, bỏ lại một phần cơ thể, mới thật tội nghiệp cho tuổi trẻ bạc phước vô phần. Thê thiết tận cùng là đời của người lính về chiều lại còn mang thương tật. Hỡi ôi những mảnh đời cùng khốn ấy rồi sẽ đi về đâu, trong cảnh mưa gió phũ phàng của cuộc đời ?

‘ ngày xưa, là lính vì đời chiến đấu
là cầu đem người sang sông
hôm nay làm ma cô đơn, gục chết bên vệ đường ..’

1-THÂN PHẬN NGƯỜI THƯƠNG PHẾ BINH VNCH:

Đọc Congressional Record, một trong những tài liệu tuyệt mật của Tòa Bạch Ốc vừa được công bố, đẽ làm cho những lính già của VNCH phải cười ra nước mắt và thương xót cho những đồng đôi, đồng bào, suốt hai mươi năm qua, vì chiến đấu chống sự xâm lăng của Bắc Việt, mà chết oan hay bị mang thương tật do đạn bom và bàn tay VC gây ra. Những luật lệ kỳ quái như Lính Mỹ không được bắn VC, trừ phi chúng tấn công trước. Không lực Mỹ không được giội bom vào xe của VC khi chúng ở cách đường mòn Trường Sơn 200m. Phi cơ Mỹ không được tấn công phi cơ Mig nếu chúng không gây hấn, không giội bom các phi cơ VC đậu yên tại phi trường. Cuối cùng, nghiêm cấm quân Mỹ truy đuổi VC, khi chúng chạy sang Lào và Kampuchia..

Chính phủ Hoa Thịnh Đốn, chẳng những cấm Quân Lực Mỹ, Đồng Minh, VNCH không được thẳng tay tiêu diệt kẻ thù, mà còn báo trước những bí mật quân sự, quốc phòng cho VC biết trước, qua những lần oanh tạc tại miền Bắc, trên đường mòn HCM, hành quân Lam Sơn 719.. Đó là tất cả những sự kiện lịch sử có thật, được Thứ Trưởng QP Mỹ Phil Golding, thời TT.Johnson, trả lời thắc mắc của hàng ngàn gia đình tử sĩ Hoa Kỳ:’ Chúng ta đang tham gia vào một cuộc chiến giới hạn, với nhữn mục tiêu hạn chế. Nói chung đây là một cuộc chiến vì chính trị, nên không thể tiêu diệt VC được ‘.

Do sự phản ứng càng lúc càng đông của người Mỹ, trước cái gọi là ‘ đánh không cần thắng ‘, nên dân chúng đã xuống đường, đã đảo mà báo chí thời đó, gọi là do phản chiến giựt dây. Thật sự, người Mỹ đã quá chán ngấy cái trò đem con bỏ chợ, đem trứng cho ác, dai dẳng từ thời Kennedy, Johnson, kế đó là Nixon, nên đã giận dữ đòi Hoa Thịnh Đốn ‘ Hãy cút khỏi VN ngay, hãy chấm dứt cái trò chiến tranh nướng thịt dai dẳng vô ích này .’

Tóm lại qua cuộc chiến VN, do đầu óc con buôn, người Mỹ đã đánh mất tất cả mọi ý thức về trách nhiệm và danh dự, làm tiêu tốn hơn 150 tỷ mỹ kim tiền đóng thuế của dân chúng, hại cho 55.000 chiến sĩ bị chết oan và hơn 300.000 quân nhân các cấp bị thương tật. Trong khi đó, người lính VNCGH, dù là một quân đội bất hạnh nhất thế giới, theo cáo cáo của MACV, Command History hay Dwight Owen, một cố vấn Mỹ tại VN, thì đối với các quân nhân VNCH, CHỈ CÓ CHẾT, TÀN PHẾ HAY ĐÀO NGỦ, mới mong giải thoát được cái thân phận bọt bèo của người Lính chiến trong thời loạn lạc.

Ngoài ra, tài liệu cũng có nói tới việc lính Nam VM đào ngủ, nhưng không phải họ đầu hàng VC, mà trở về quê nhà, gia nhập lực lượng DPQ+NQ, để được chiến đấu bên cạnh vợ con, gia đình. Sau rốt, tính đến đầu năm 1975, QLVNCH đã có 231.508 tử sĩ và 95.371 phế binh. Thương tủi nhất là những ngày tháng sau đó, cho tới khi Nam VN sụp đổ vào ngày 30-4-1975, đã có hằng vạn dân lính vô tội, đã gục ngã trên chiến trường và khắp các nẻo đường chạy loạn. Nhiều tử sĩ cũng như thương binh đã bỏ thây, bỏ xác tại chỗ, vì đồng đội không thể làm gì hơn giữa chốn loạn quân. Chính Nhảy Dù từ ngày thành lập, cho tới khi tan hàng, cũng đã phải nuốt lệ, bỏ lại xác đồng đội, tại Mặt Trận Xuân Lộc tháng 4-1975, như Phạm Huấn đã viết, khi được lệnh rút quân bất ngờ trong đêm, mịt mù lửa đạn..

Trước sự sụp đổ nhanh chóng và vô lý của Nam VN không phải tại chiến trường, mà ngay ở các thành phố lớn Ba Lê, Hoa Thịnh Đón, New York, Luân Đôn, La Mã, Huế-Đà Nẳng và Sài Gòn, khiến cho nhiều trí thức ngoại quốc, đã phẫn nộ và bày tỏ thái độ khinh miệt, đối với một số người trong cũng như ngoài nước, một thời lợi dụng tự do, dân chủ và nghề nghiệp, để bẻ cong ngòi bút, xuyên tạc sự thật, phỉ báng đồng bào và quân đội Nam VN với mục đích đầu độc dư luận thế giới, giúp Bắc Việt cưỡng chiếm VNCH. Đề tài quen thuộc, được một số báo chí Hoa Kỳ và Tây Phương viết lách, đem lên truyền thanh truyền hình, đó là người lính VNCH hèn nhát không chịu chiến đấu nên bị mất tự do và người Mỹ khinh miệt.

Hai câu hỏi trên cách đây vài chục năm được bịa chuyện là có, nhưng bây giờ sự thật đã xác nhận ‘ KHÔNG ‘. Hoa Kỳ khi tới chiến đấu tại Nam VN, có đủ phương tiện tinh thần cũng như vật chất, vẫn nhiều lần bị thương vong, bại nhục., vẫn không thiếu những binh sĩ đào ngủ, bỏ chạy khi trận địa hỗn loạn, vẫn có tham nhũng và chính cưu TT. Bill Clinton, vì hèn nhát nên đã trốn quân dịch pháp định. QLVNCH chỉ mới được thành lập, được coi là một quân đội nghèo nhất trên thế giới, lại bị chiến đấu trong một cuộc chiến không có giới hạn chiến trường, hậu phương, bạn địch.

Thế nhưng những người lính nghèo đó, mà lương năm cộng với tiền tử tuất, phế tật, không bằng một cuốc rượu của những ca ve, me Mỹ..vậy mà họ vẫn một đời đem máu đào xương trắng, phụng sự chính nghĩa, bảo vệ màu cờ, sắc áo và từng sinh mạng cũng như tất đất của quê hương. QLVNCH là sinh mạng của muôn người, nên khi thiếu vắng hay không còn họ, mạng người Nam VN lá rụng, đã gục ngã tại Mậu Thân Huế-Sài Gòn, trên các đại lộ kinh hoàng quốc lộ 1, Kontum, An Lộc mùa hè đổ máu và sau rốt là cùng nhau chết tập thể vào ngày 30-4-1975. Như sử gia Edward S.Creasy viết trong tác phẩm nổi tiếng ‘ Fifteen Decisive Battle Of The World ‘ năm 1851 ‘ Tầm quan trọng của một cuộc chiến, là những gì ta có hôm nay, đối với người thắng cũng như kẻ bai ‘. Những gì đã xảy ra tại Nam VN, sau 30 năm bị cong sản cưởng chiếm, đã đủ trả lời về tấn thảm kịch của VN, mà lần nữa Robert S.McNamara, cựu bộ trưởng QP. Thời TT Kenedy, đã giải thích một chiều, trong hồi ký của mình ‘ In Retrospect-The Tragedy and Lesson of VN ‘.

Nhưng không phải tất cả người Mỹ đều mù quáng và tin tưởng vào truyền thông báo chí lúc đó. Chính những giờ phút cuối cùng, nhìn cảnh đời bi thảm của phận lính bọt bèo Nam VN trên màn ảnh, tờ The New York Times Service, đã thay thế người nhược tiểu, giận dữ tố cáo chính quyền Mỹ là hèn nhát, bỏ đồng minh tháo chạy về nước trước sự tấn cộng của VC. Họ cũng nêu đích danh Henry Kissinger là kẻ bán đứng VNCH cho VC khi bắt ép họ ký vào bản hiệp ước giả mạo 1973, sau đó tàn nhẫn cúp viện trợ, phủi tay đứng nhìn miền nam sụp đổ.

Không có gì tồn tại với thời gian, trừ chân lý. Vì vậy những câu chuyện hề của Henry Winston, chủ tịch đảng cọng sản Mỹ, đem diễn tại Hà Nội vào tháng 5-1975, hay lời tuyên bố vung vít của Nguyễn Hữu Thọ, chủ tích bù nhìn của Mặt Trận Ma giải phóng, tại Mạc Tư Khoa, ngay khi Sài Gòn thất thủ: ‘ cám ơn báo chí và ký giả Tây Phương, đã góp phần lớn cho chiến thắng của Hà Nội, trong số này đáng kể là người Mỹ ‘.

Đây là tất cả sự thật, vừa được một cựu chiến binh Không Quân Hoa Kỳ là Harry H.Noyes, thay mặt những người lính VNCH, qua tác phẩm ‘ Heroic Allies ‘ nói lên vinh quang và sự hãnh diện của một quân lực, từ lâu đã bị bọn trí thức vô liêm sỉ, tước đoạt một cách hèn hạ, bất nhơn và vô nhân đạo. Sự tuyên truyền lố lăng và cuồng ngạo của Hà Nôi cùng những mặt mo bưng bợ, làm cho thiên hạ năm châu chán ghét, sau khi cái thây ma VNCH chỉ còn trơ lại bộ xương gầy đét, không còn gì để cho Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Chân Tín và một số quạ đen, diều hâu, bu tới rỉa rói như lúc chợ còn đông khứa.

Trong tài liệu đặc biệt ‘ How Media Bias Distorts Our View of the World ‘ của ký giả Allan Brownnfiels, nói rằng vì hầu hết giới truyền thông Tây Phương, quá mù quáng, ca tụng một chiều về Mao Trạch Đông và Fidel Castro, trong lúc thẳng tay sỉ nhục bôi lọ Tưởng Giới Thạch và chính phủ CuBa lúc đó, tuy vô tình nhưng đã làm cho cọng sản tại hai nước này chiến thắng mau lẹ. Bài học của lịch sử sau đó lại tái diễn ở Nam VN. Lần này do chính những thành phần được ưu tiên trạng trọng trong xã hội lúc đó, là những công tử tiểu thu đài cát của giới địa chủ, địa hào, thương gia, chủ vựa nước mắm, nhờ cha mẹ tổ tiên theo thực dân Pháp bốc lột đồng bào, nên có tiền, có thế, cho con trai, con gái qua Pháp, Mỹ du học thành luật sư, bác sỷ, giáo sư, những thành phần mà Hồ Chí Minh và đảng VC ở miền Bắc, chém giết và khinh bỉ tận tuyệt, sau khi được làm chủ nửa miền đất nước vào năm 1954.

Nhờ cái mặt nạ trí thức và sự tự do quá trớn của Nam VN, những thành phần ăn chén đá bát này, luôn bẻ cong ngòi bút, làm cho thế giới tự do lầm lạc, nghĩ rằng giặc Cộng tại Nam VN là những người bình thường, yêu nước, nên nỗi dậy chống lại sự độc tài tham nhũng của chế độ. Tóm lại nhờ những trí thức này, mà VC nằm vùng sau ngày tập kết 1954, VC chính thống từ Miền Bắc xâm nhập, kể cả Tàu Cộng, Liên Xô, Cu Ba, Đông Âu..trong bộ đội Hà Nội đang chiến đấu tại Nam VN, đều không có dính líu tới Hồ và cọng sản đệ tam quốc tế. Sự độc ác trên, nhờ tuyên truyền ngay ở miền Nam và các mạng lưới quốc tế, khiến cho cuộc chiến chống xâm lăng cọng sản, của người Việt quốc gia Nam VN, mất đi cái ý nghĩa chính thống, làm cho Hoa Kỳ cũng gặp nhiều khó khăn khi sang chiến đấu bảo vệ tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á. Rốt cục, cả Mỹ lẫn Việt đều đại bại trước mặt trận thông tin ca ngợi VC, của báo chí, truyền thông ngoại quốc và ngay trong nước.

Từ năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân dồn dập vào Nam VN, cũng là thời kỳ lửa máu dồn dập ở hậu phương . Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra, của những thông tín viên, ký giả ngoại quốc, qua những bài tường thuật, có kèm hình ảnh, không phải để phổ biến những sự thật, mà chỉ để tuyên truyền một chiều, nhằm bôi lọ những quân đội, đang trực diện với cọng sản Bắc Việt, trên chiến trường Nam VN. Có thể nói bài phóng sự chiến trường đầu tiên, của thông tín viên đài CBS tên Morley Safer, viết về cuộc hành quân của một đơn vị TQLC Mỹ, tại một làng xôi đậu, đã trở thành những mẫu thông tin ‘ ăn khách’, theo đơn đặt hàng của thị trường Mỹ và Tây Phương lúc đó. Cũng nhờ báo chí phản tuyên truyền, Tết Mậu Thân 1968, VC chết thảm khắp nơi, đã thành chiến thắng, chiếm được ngay cả Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tàn nhẫn và đáng khinh tởm nhất, là báo chí Tây Phương, trong suốt cuộc chiến Nam VN, đã không hề một chữ tường thuật những hành vi khủng bố, giết người tàn bảo của VC trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế, năm 1972 và những ngày di tản máu lửa hận hờn

Người lính VNCH vừa đánh giặc phương Bắc, vừa chống đỡ búa rìu truyền thông báo chí trong nước cũng như phong trào phản chiến tại Mỹ và tây phương, được liên kết bởi trí thức, sách báo và tuyên truyền. Đó cũng là lý do đưa đến sự sụp đổ tất yếu của một dân tộc hiền hòa, lễ nghĩa nhưng bất hạnh vì mang thân phận nhược tiểu

2 - THƯƠNG QUÁ NGƯỜI PHÊ BINH VN:

Tất cả hình như chỉ còn có kỹ niệm, sau cuộc đổi đời. Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận.

Mất nước nhà tan, nguời lính sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn. Nhưng tất cả giờ cũng đả đi hết rồi, chỉ còn ở đây là những thương phế binh xa củ, những hồn ma cô quạnh, sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:

‘ Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh..’
( Tô Thuỳ Yên)

Ta thán phục, ta hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang sử củ. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần bình Chiêm, phá Bắc, đuổi giặc Mông trên sông Bạch Đằng, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảo. Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành sử thế nào mà muôn người như một, khiến cho người trong nước, gia trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới vở lẽ, thì ra đó là tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân của kẽ sỉ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là đức tính cao quí của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.

‘ Tôi không là tôi nửa,
từ khi được xuất ngủ
có quạ đen đậu trên đấu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..’

Thanh niên VN thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh, sau khi được xuât ngủ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả, ngoài người mẹ già, từ quê xa, đang đợi con trở về. Thê thiết quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiều. Ai đã tùng thấy chưa, cảnh vợ lính hay người yêu, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đây. Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi người. Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu:

Theo sử liệu, ta biết Nha Cựu Chiến Binh và Nạn Nhân Chiến Cuộc, trược thuộc Bộ Quốc Phòng. Đầu tiên Nha này là một Bộ, được thành lập vào tháng 8-1952, có một An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó, bộ này bị hủy bỏ, tất cả các vấn đề liên hệ tới cưu chiến binh, đều giao cho Bộ Y Tế, với một Nha riêng gọi là Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh.

Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sài Gòn. Ngày 29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc CCB và NNCC đưọc thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và các Ty trực thuộc .

Đầu năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đó là vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, trưởng trại 12 Tai, mắt, mũi, họng, thuộc Quân Y Viện Nguyễn Huệ. Vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quóc Anh, với sĩ quan hành chánh Đặng Mai, toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh Hòa lúc đó là Đại Tá Lý bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Biệt Lập, ra lệnh cho DPQ bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam Ranh.

Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi quyền sống. Taị Sai Gòn, Trung Úy mù BDQ.Đổ văn Lai, đang cùng một số phế binh nặng, đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình, đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm cho chính quyền trung ướng cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính, nên ai nỡ xuống tay .

Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sài Gòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh, tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu, tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Hàng thành lập.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975), nếu TT Thiệu có chính sách ‘ Người cầy có ruộng ‘, thì Phó TT. Nguyễn Cao Kỳ, cũng chủ trương ‘ Phế Binh có nhà’. Nói chung bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Phế binh, cô nhi quả phụ càng ngay càng được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt, kể từ năm 1972, chính phủ cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh tai các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rải, ngoại trừ, sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ đó, nguời cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn buổi trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.

Rồi thì hằng loại Làng Phế binh, lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà, không muốn vào Làng, dược trợ cấp một ngân khoản 60.000 đồng. Tất cả các làng trên, đều bị VC cướp giựt sau ngày 30-4-1975.

Làm người bình thường, sống trong thời loạn, đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo, lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa, là lính đánh thuê cho Mỹ..

‘ Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo ngưởi xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ..’
(Phạm Duy).

Nhưng chiến tranh chứa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.

Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống ? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nửa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng, sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng tấm mưa. Kiếp sống phận bèo của người phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường

Hai mươi năm chinh chiến, dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nửa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước, cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang nhiều thứ gông, cả cọng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền.

Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ củ còn, được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi..thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèo. 30-4-1975, VC vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và ngay cả ngôi nhà của mình.

19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.

Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về ? Có ai cầm được nưóc mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót đắt dìu ra cổng. Người sáng giắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt đoanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn, vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Iá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèo.

Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ cứ tưởng mới hôm qua hôm nay. Ba mươi mốt năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì.

Bởi tất cả đâu có khác gì bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tối. Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả những cấp chỉ huy củ, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoại.

- Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả.
- Phế binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại.
- Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân.
- Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hối
- Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ, trong căn nhà VN to lớn, đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.

Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan tái, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:

‘ Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già ..’
(Chinh Phụ Ngâm)

Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH ?

‘ Dâu binh lửa nước non như củ,
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương’
(Chinh Phụ Ngâm)

Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nổi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ . Nghiêng mình, cúi đầu cảm tạ những vị ân nhân, đã và đang hết lòng cưu mang, giúp đở tận tình ‘ Thương Phế Binh, gia đình kể cả cô nhị quả phụ VNCH ‘, hiện đang sống kiếp trầm luân rách đói, trong địa ngục VN.

Cám ơn Hội Thân Hửu Bình Thuận tại Miền Bắc CA, năm nào cũng không quên Những Thương Phế Binh, hiện còn sống tại Phan Thiết- Thuận, bằng những món quà tuy ít ỏi nhưng chứa đựng cả một trời tình biển nhớ, tới với những tâm hồn lạc lỏng đang lê lết sống buồn bên lề cuộc đời, ngay chính trên quê hương mình .

Bất chấp nguy hiểm, những người có trách nhiệm của Hội, đã tận tay mang tiền tới nhà TPB theo danh sách đề nghị, để tránh thảm trạng ‘ VC ăn ốc, chúng ta đổ vỏ ‘, mà thời gian qua, không ít người thâu tiền người tị nạn, đem về nuôi mập phề binh bộ đội Bắc Việt. -/-


Xóm Cồn
5 - 2006
Mường Giang

Cau Chuyen Nguoi Thuong Binh




Chiến tranh đến người lính không muốn bởi vì bản chất dân tộc Việt Nam không hiếu chiến. Chiến tranh đi vào căn nguyên cội nguồn là do sự tham lam của chủ thuyết Cộng Sản, bởi một thiểu số lãnh đạo sống với giấc mơ hoang tưởng ban đầu khi mang ý tưởng quốc hữu hóa cuộc sống người dân để mọi người được bình đẳng, cho một thế giới vô sản, không giai cấp.
Và từ đó qua những nhà lãnh đạo tham lam và cuồng tín tại miền Bắc Việt Nam đã xua quân xâm chiếm Miền Nam. Miền Nam phải tự vệ, người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mang vai trò bảo vệ từng tất đất quê hương.
Sở dĩ chúng tôi phải nhập đề về vai trò của người lính VNCH là vì Miền Nam đã có chánh nghĩa như thế ngay từ nguyên thủy của vấn đề, tức họ có tư thế tự vệ chính đáng. Trong cuộc chiến tự vệ bảo vệ bờ cõi, khi chúng ta nhìn về những thiệt thòi, những khổ đau của người lính VNCH trải qua trong cuộc chiến và cũng như sau cuộc chiến, chúng ta sẽ phải ngậm ngùi cho những điều phi lý nhất đã theo đuổi, ám ảnh cuộc sống đầy gian truân của họ, đặc biệt là số phận người thương phế binh VNCH. Trong thời chiến, nói về khía cạnh kinh tế đời sống thì mức lương của người lính tác chiến đuợc trả theo thời giá bằng con số phụ cấp 4.500 đồng VNCH cộng thêm vào mức lương căn bản (quân nhân không tác chiến không có phụ cấp này). Lương trung bình một người Binh Nhì khoảng 18,000 đồng, phụ cấp vợ 2,000 đồng, mỗi con 1,000, nếu tác chiến được nhận thêm 4,500 đồng. Nếu tính hối xuất mỹ kim thời đó thì thật sự lương người lính cộng phụ cấp các thứ kế cả tiền gộp lại tất cả không quá 20 mỹ kim một tháng. Người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dĩ nhiên chấp nhận túng thiếu đến đỗi mức ăn của một chiến sĩ không thể cứ mỗi ngày mua nỗi một tô phở như chúng ta đang sống tại Mỹ, Úc hay Canada.
Để các bạn trẻ ra đời khi còn quá nhỏ hay sau cuộc chiến có thể có một ý niệm về sự so sánh đơn giản mức sống nghèo khổ của người lính và gia đình so với thời giá lúc đó, chúng ta định tiêu chuẩn bằng mỹ kim. Nếu là hai vợ chồng người lính chưa có con, thì mỗi ngày họ chỉ được phép “ăn xài” tối đa là 1 mỹ kim cho tất cả các khoản thực phẩm tối thiểu như gạo, muối, đường, nước mắm,... và linh tinh, thông thường ăn rau ăn độn với cơm, vì thường đến thăm những gia đình quân nhân quen chúng tôi thấy họ ăn đạm bạc như rau chấm với nước mắm kho quẹt hay cơm chấm muối mè. Nếu là một gia đình 4 người thì mức tiêu xài là 1,5 mỹ kim. Như vậy với đồng lương 20 mỹ kim một tháng chỉ có thể sống sót được tối đa có 20 ngày, còn 10 ngày cuối cùng kia thì chính người vợ và đàn con phải xông pha ra ngoài chợ đời làm lụng thật vất vả để bù đắp vào. Cuộc đời đen tối cứ thế kéo dài mãi, giá sinh hoạt ngày càng tăng vọt vì nạn lạm phát. Một đô la Mỹ đổi được 500 đồng VN trong những năm cuối cùng của thập niên 1970, nhất là năm 1975 nó đã leo lên đến 1,800 đồng VN. Đó là chưa kể đến những nhu cầu cần thiết khác cho đời sống như thuốc men, quần áo, thuốc hút, nhu cầu cho con cái đi học,… đòi hỏi phải chi tiêu rất nhiều tiền bạc. Người lính sẽ thiếu thốn triền miên. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy mà những người chiến sĩ vô danh khiêm nhường ấy vẫn đánh giặc, vẫn ôm ấp lý tưởng bảo vệ giang san bờ cõi quốc gia, và họ đã đánh thắng những trận thật lớn và thật lừng lẫy, rúng động thế giới và cả quân thù cũng phải khiếp vía run sợ. Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam ấy đã câm nín, nhẫn nhục, không kêu ca nề hà, bản thân họ gánh vác trên vai cả một trách nhiệm nặng nề, nhiều khổ ải và triền miên chất chứa trong lòng nhiều nỗi lo lắng khôn cùng cho gia đình ở quê nhà. Họ dũng cảm xông vào những cơn bão lửa tàn khốc nhất của chiến tranh từ Bình Giả, Đồng Xoài đến Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa, và trong cuộc chiến như vậy, chúng ta thấy rằng người lính đã chia một nửa trái tim hiến dâng bảo vệ Tổ Quốc, một nửa trái tim gửi về hậu phương cho gia đình vợ con.
Bài viết này chúng tôi muốn nghĩ đến những anh em thương phế binh (TPB) VNCH, hiện còn ở quê nhà chịu những ngậm ngùi đắng cay nhất sau biến cố đau thương 1975. Những cựu quân nhân bị thương phế còn một chút may mắn đuợc trở về với vợ con hay cha mẹ, sống chuỗi đời còn lại vá víu trong quên lãng của đời nghiệt ngã bằng đủ thứ nghề quá vất vả, nếu được như vậy họ cũng tìm thấy một chút niềm vui của mái ấm gia đình. Nhưng đối với những chiến sĩ thương phế kém may mắn hơn, họ đã chịu những bất hạnh, cô đơn vì gia đình ly tán, xã hội ruồng bỏ và rồi họ không còn nơi để trở về, hoặc không muốn trở về để trở thành gánh nặng cho những người mà họ yêu thương, hoặc bị chính gia đình bỏ rơi. Các anh lính TPB không có niềm vui nào để từ đó gắng gượng sống một cuộc sống lây lất bao phủ bởi những tủi thân, mặc cảm tật nguyền bị lãng quên. Các anh sống hiện tại mà cũng không có, thì nói đến tương lai làm gì? Các anh sống lang thang vất vưởng dưới những mái hiên, gầm cầu, ống cống, bãi tha ma, mái chợ, v.v.. Tiếng hát nấc nghẹn tủi nhục của các anh vang lên trên những chiếc xe đò ầm ĩ lao xao tiếng rao hàng của những người cũng nghèo như các anh, trên những lối chợ sình bùn, trước những quán ăn đông đảo những khuôn mặt mập bóng, đỏ au thừa thãi rượu và thịt, hay trên những đuờng phố nghìn nghịt xe cộ và đầy dẫy màu sắc ăn chơi. Một xã hội vô lý do nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gây ra và xã hội như vậy, chẳng những bạc đãi chính các anh, mà còn buôn bán cả tương lai vợ con các anh cho ngoại nhân.
Chúng ta còn nhớ trong và sau ngày 30.4.1975, những chiến sĩ mang thương tích hay các thương bệnh binh nằm điều trị trong các quân y viện bị quân giặc xua đuổi đi một cách tàn nhẫn. Xã hội văn minh như trong Thế Chiến Thứ II khi quân Đức Quốc Xã bao vây Quân Đồng Minh, họ tôn trọng qui ước chiến tranh, họ cho tải thương các thương bệnh binh. Còn đối với CSVN như bản chất của sách lược nuôi sự trả thù nhỏ mọn, họ có những hành vi thú tính, man rợ nhất được áp dụng. Có thể nói không ngoa họ không cần biết gì đến hành vi nhân đạo hay đạo lý của tình người, hay tình dân tộc đồng chủng với nhau. Dưới mắt người CSVN, những người ở bên kia chiến tuyến luôn luôn là kẻ thù cần phải bị tiêu diệt. Nếu vì lý do gì đó mà họ chưa hủy diệt được hết một lúc trong thời chiến, thì ngay từ những giây phút ngừng chiến này, họ sẽ tiếp tục giết dần mòn người lính Việt Nam Cộng Hòa, quá khứ cho thấy bằng nhiều phương cách hèn hạ nhất, nhiều cách thức khác nhau. Những tài liệu báo chí quốc tế ghi nhận khi CSVN bắt đầu xâm chiếm Sài Gòn từ các chiến sĩ bị thương tại các quân y viện, không cần biết tình trạng nguy kịch hay không nguy kịch đến tính mạng bệnh nhân, bị thương nhẹ hay thương nặng, các chiến sĩ VNCH bị xua đuổi phải ra khỏi giường bệnh, dắt díu nhau lê la trên các hè phố tìm đuờng về quê nhà. Những chiến sĩ bị thương quá nặng chỉ có thể nằm hấp hối bên vệ đường chờ chết. Những nhân chứng kể lại những túi nylon bọc lấy những mẫu ruột đã đen sậm và đầy bụi đất, hay những vết cắt lở lói ở những cánh tay hay ống chân có thể cho phép người thương phế binh lê về được đến nhà, dù là để chết trong tay vợ con hay trước sự chứng kiến của người thân.

Tôi là người lính Việt không may
Xếp bút nghiên theo cuộc chiến dài
Nào ai đoán biết được ngày mai
Phần số thương binh sau cuộc chiến
Lết cuộc đời lê nẻo tương lai
Ngậm ngùi vợ con sao tan vở?
Ngẩng mặt nhìn đời ngày lại ngày
Ai ơi có thấu lời bi ai?
TPB Cần Đước

Những anh thương phế binh may mắn sống sót sau cơn bão đỏ kinh khiếp này, may mắn được gia đình tìm ra và tiếp cứu kịp lúc đem trở về quê nhà, tiếp tục sống một cuộc sống mờ mịt, hẩm hiu vì không có hiện tại, không cả tương lai. Trước năm 1975, thương phế binh cam chịu sự thờ ơ của người hậu phương. Sau năm 1975, thương phế binh bị ném ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, là thành phần tang thương cùng cực nhất trong hệ thống bậc thang trị giá con người, mà lại là con người trong chế độ cộng sản. Các anh vẫn tiếp tục sống cuộc sống thầm lặng khổ đau trong tối tăm, trong đói rách bao nghịch cảnh ở những chỗ hạ đẳng tận cùng: từ ống cống, gầm cầu, hay đến những bãi tha ma. Niềm mơ ước duy nhất và rất nhỏ bé của các anh, là xin thượng đế nhủ lòng thương cho các anh kiếm đuợc đủ hay xin được thức ăn sống mỗi ngày. Có những anh lê lết những phần thân thể trên mặt đường lâu ngày những phần thân thể bị nhiễm trùng ung mủ lở loét. Nhìn những chiến hữu của chúng ta tang thương như vậy, chúng ta không thể không xót xa đau lòng. Nhưng thân tàn ma dại dó đã lê lết trên quê hương chúng ta, họ sống vô vọng. Những TPB có gia đình khá hơn thì có xe lăn, họ góp được chút vốn thì lăn xe đi bán vé số hay ngồi bán thuốc lá lẻ, đan sọt đan thúng, làm hàng thủ công, hoặc nuôi gà nuôi heo. Ngay cả chuyện nuôi con heo cũng là một mơ ước vô cùng lớn lao, tưởng không thể nào có thể thực hiện nỗi, nếu không có một phép lạ nào đó. Trong những hoàn cảnh cùng cực như vậy mà các anh vẫn cứ đều đặn chống nạng hay lăn xe lên Nghĩa Trang Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa để chăm sóc mồ mả của những chiến hữu trong đó. Có còn nghĩa cử nào cao qúi hơn nữa không, để những người còn sống như chúng ta phải cúi đầu chào kính các anh?
Sống cuộc đời tủi cực, làm những người sống ngoài lề xã hội ngay trên đất nước của mình, nhưng những chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa vẫn an ủi nhau, vẫn nuôi dưỡng một niềm tin. Có nhiều anh chịu không nỗi nhục nhã đã nhảy sông, thắt cổ, hay bất cứ cách nào để chết. Nhưng nhiều anh đã cắn răng khuyên nhau cố gắng sống. Sống để chờ một phép nhiệm mầu nào đó cứu giúp cuộc đời khốn cùng. Thật kỳ diệu, mà cũng thật nghẹn ngào, các anh đã sống vật vờ và nuôi dưỡng niềm tin ấy đến hơn một phần tư thế kỷ. Cái điều được chờ đợi ấy đã bắt đầu hiện đến với các anh, dù mới chỉ là những đóm lửa còn le lói. Những người chiến hữu của các anh bên kia bờ Thái Bình Dương bắt đầu dấy lên những phong trào vận động quyên góp gửi quà và tiền về giúp đỡ cho các anh, dù rằng có người được, người chưa.
Từ những năm 1990 cho đến nay, đã có nhiều hội đoàn cựu quân nhân QLVNCH hay ngay cả nhiều hội đoàn dân sự, cá nhân, truyền thanh, báo chí ở Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu đã tổ chức những cuộc gây qũy và tích cực cổ động cho việc gửi tiền tương trợ cho các anh thương phế binh ở quê nhà. Những đóm lửa nhỏ này có thể một ngày không xa lắm sẽ bùng lên thành một ánh lửa lớn quy tụ đuợc nhiều tài lực, thêm nhiều phương tiện, từ đó có thể giúp đỡ chiến hữu bên nhà tích cực hơn. Hầu như là các hội đoàn của những quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều có chương trình tương trợ cho các anh thương phế binh. Các bạn hãy cùng lắng nghe vài đoạn thư của Biệt Cách Dù Nguyễn Chí Linh từ Việt Nam, để thấy được nỗi niềm của những người anh em chúng ta, đẩ cảm nhận được ý nghĩa về việc làm của chúng ta: "... gia đình tôi, vợ và các con vui mừng, đứa nào cũng rơi nước mắt, riêng tôi thì vô cùng xúc động... số tiền quá lớn, tôi mua được hai con heo để nuôi, mỗi con 400.000 đồng Việt Nam. Tôi hy vọng là sau sáu tháng, heo bán sẽ có lời, tôi sẽ mua gà Tam Hoàng nuôi, có thu nhập thêm, chứ đời sống còn thiếu thốn lắm... Thành thật cám ơn Thầy và quí hội đã cùng nhau giúp đỡ cho đứa em còn ở lại Việt Nam nghèo khổ này".
Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp do ông Nguyễn Quang Hạnh làm Hội Trưởng cùng một số hội viên trong Ban Chấp Hành đã hoạt động rất tích cực trong công tác tương trợ các anh thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ hơn mười năm qua. Hoạt động của Hội ngày nay đã được biết đến trong cộng đồng người Việt ở châu Âu nhờ Ban Chấp Hành đã cho lưu hành những đặc san NẠNG GỖ để gởi đến đồng bào những bài viết, những hình ảnh tàn phế của những người thương binh ở quê nhà, danh sách thương phế binh xin được giúp đỡ, những lời kêu cứu và hình ảnh thảm thương trong cuộc sống bị vất bên lề xã hội của các anh. Ông Hội Trưởng Nguyễn Quang Hạnh cùng những vị có cùng tấm lòng nhân ái hướng về các anh thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đã luôn dằn vặt trong lòng nỗi xốn xang:
Khẳng định rằng ngày 30.4.1975 là ngày đại họa, một cái tang lớn phủ trùm xuống đồng bào Miền Nam. Quyền sống của con người không còn nữa, tiếp theo là sự trả thù của chế độ mới tiến hành đối với những người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đau thương và tủi nhục hơn hết, tột cùng đau khổ nhiều hơn hết là những anh em thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Đó là những người lính chiến đã từng hy sinh và chịu nhiều gian khổ ngoài chiến trường bởi lý tưởng tự do, vì sự sống an bình cho đồng bào ở hậu phương. Các anh đã không may bị súng đạn cướp mất một phần thân thể, lại bị chế độ kỳ thị, phân biệt đối xử, cuộc sống của các anh bị đặt ra ngoài lề xã hội thực tại. Từ hơn 30 năm qua, đối với gần ba triệu người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại này, sự kềm kẹp, kiểm soát của CSVN về mọi biện pháp giúp đỡ các anh TPB, và chính vì thiếu sự nhân đạo đã gây khó khăn cho việc giúp đở TPB của VNCH một cách công khai.
Trong tình thế mới khi đảng CSVN càng o bế quốc tế, sự chấp nhận cho giúp đỡ các anh em TPB có phần khá hơn, Hội Bạn Của Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa đã kêu gọi và đã nhận được rất nhiều sự hưởng ứng nồng nhiệt của người Việt ở Pháp và nhiều nước châu Âu. Nhờ sự giúp đỡ này, Hội đã có thể gởi về các anh thương binh ở quê nhà những món tiền tình nghĩa, nhiều chiếc xe lăn tay. Những đồng tiền của đồng bào hải ngoại gởi về cho các anh thương phế binh và gia đình đâu đã là nhiều, nhưng khi nó đến đúng lúc thì cũng có thể giúp cho các anh một niềm vui nhỏ và vượt qua được hoàn cảnh thắt ngặt. Thư cảm ơn của các anh gởi sang rất nhiều với những giòng chữ đơn sơ diễn tả những lời chân thành mộc mạc từ tận đáy lòng của các anh. Có còn cảnh ngộ tuyệt vọng tận cùng nào hơn nữa không đối với anh Võ Văn Huề như trong bức thư này:"Tôi ký tên dưới đây là Võ Văn Huề, hiện ở tại số 97, Khối 5. Thị trấn Kiến Đức – Dak Rlăp – Đăk Lak – Việt NamKính gởi: Hội cùng Ân Nhân.Tôi nhận được thư của Hội ngày 21.7.2002, còn tiền vào ngày 27.7.2002. Nay tôi viết thư này để Hội biết lòng biết ơn sâu nặng của tôi. Đối với bản thân, tôi phải khóc, không thể nói hay viết hết lời cho Hội và ân nhân, hội đã hiểu nên tôi không viết thêm. Hiện gia đình tôi có 6 con, đứa đầu đi không vững, nói không rõ, không lớn được và không biết chữ. Còn 5 cháu sau vì đông nên việc học rất khó khăn. Nếu bên đó ai có nhu cầu xin con nuôi, gia đình đồng ý cho không điều kiện, Một lần nữa xin nói lên lòng biết ơn sâu nặng của gia đình tôi đến với Hội và ân nhân đã cho gia đình tôi có sự sống lẫn tinh thần. Xin chúc Hội và ân nhân được nhiều ơn riêng của trời đất. Kính thư. Huề."
Mẹ Việt Nam ơi, đồng bào ruột thịt ta ơi hãy cùng cứu lấy những linh hồn cô đơn bị lãng quên! Anh em chúng tôi viết bài này vì mùa Xuân 2006 những tổ chức khắp nơi Âu châu, Úc và Bắc Mỹ đã gia tăng nỗ lực cứu giúp. Những đoàn thể tại Nam và Bắc Cali đã gây quỹ lạc quyên cho các anh em Thương Phế Binh. Chúng tôi vừa được biết sẽ có một Đại Nhạc Hội tại Nam Cali, ngay thủ đô của người tị nạn Việt Nam, Đại Nhạc Hội mang tên: "CÁM ƠN ANH - NGƯỜI THƯƠNG BINH VNCH".
Cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến cho các anh Thương Binh VNCH. Đồng bào tại hải ngoại sẽ không quên các anh, chúng ta sẽ gặp nhau một ngày không xa, cầu mong các anh sẽ tiếp tục hiện hữu chứng kiến sự cáo chung của những người đi ngược lại ý nguyện của dân tộc Việt Nam. Sau cùng anh em chúng tôi xin kết thúc bằng bài thơ dành cho các anh:

“Xưa đồng đội như rừng
Gót giầy vang mặt phố
Nay xa cách muôn trùng
Một thân nơi xó chợ

Những người ba mươi năm
Thoảng như cơn mộng dữ
Còn một khúc thân tàn
Vinh danh ngày tháng cũ"
(Trích “Tạ Ơn Anh”, thơ Đỗ Tiến Đức)


Phạm Phong Dinh và Trần Việt Hải

Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh II/ 3 Tháng 8 năm 2008

* Vì lý do đặc biệt, Ban Tổ Chức đã rời ngày tổ chức Đại nhạc Hội vào ngày 3-8-2008, thay vì ngày 13 tháng 7 năm 2008. Các vé đã bán vẫn có giá trị cho tới ngày 3-8-2008.

Huy Phương

Hai năm trước đây, vào ngày 25 tháng 6 năm 2006 tại Sân Vận Ðộng trường Bolsa Grande, Nam California, Nam California đã tổ chức được một buổi gây quỹ giúp cho các thương phế binh VNCH một cách quy mô, gọi là Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH”:

- 10,000 đồng hương từ cụ già 80 tuổi đến em bé 2 tuổi đã ngồi kín cả sân cỏ Sân Vận Ðộng trường Bolsa Grande, dưới trời nắng ở Nam California lên tới 90 độ từ 12 giờ trưa đến 7 giờ chiều ngày Chủ Nhật 25 tháng 6 để theo dõi chương trình Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH”.

- 9,000 vé tham dự Ðại Nhạc Hội đã được bán ra.

- Ban tổ chức sau chi phí đã nhận dược sồ tiền gần $450,000 của đồng hương đã ủng hộ qua đài truyền hình SBTN, quyên góp tại chỗ, và quý ân nhân khắp nơi ủng hộ Ðại Nhạc Hội gởi về Hội H.O. Cứu trợ TPB-QP/VNCH .

- Hội H.O. Cứu trợ TPB-QP/VNCH đã giúp đỡ được trên 5,000 hồ sơ thương binh và quả phụ. Năm 2007-2,000 hồ sơ và 1,000 hồ sơ cho bốn tháng đầu năm 2008. Hiện nay trung bình mỗi tháng hội nhận từ 200 đến 300 hồ sơ và còn lưu giữ 3,000 hồ sơ chưa giúp đỡ được.

- Những con số trên đây đã cao hơn sự mong đợi của Ban Tổ Chức và đã nói rõ tấm lòng của người Việt hải ngoại đối với anh em thương phế binh ở quê nhà. Ðám đông thầm lặng này, dù không có cơ hội nói lên, đã phát biểu những ý nghĩ qua sự tham dự một buổi ca nhạc ngoài trời, không mấy tiện nghi này. Ðó là tấm lòng đối với các chiến sĩ VNCH, nhất là những thương phế binh đang chịu cảnh thiệt thòi ở quê nhà, vẫn còn nguyên vẹn.

- Lâu nay chúng ta thường ngại lời kêu gọi giúp đỡ thương phế binh ở quê nhà không được đáp ứng, vì chúng ta nghĩ rằng, ba mươi năm trôi qua, người cũ đã ra đi, tuổi trẻ mới lớn lên, biết có ai còn nhớ đến những ân tình của những ngày tháng cũ. Nhưng không, những người lớn tuổi, rời đất nước từ ba mươi năm hay hai mươi năm về trước, nay đang đến tuổi già, là thời gian hồi tưởng dĩ vãng. Tuổi trẻ đang chạy theo cuộc sống tất bật ở quê người, nhưng chưa quên những bước đường lịch sử mà cha ông đã đóng góp xương máu.

- Hiện nay, cộng đồng hải ngoại đã phát động đa đoan nhiều chiến dịch giúp đỡ nhân đạo cho quê nhà, tuy nhân đạo bao giờ cũng quý, nhưng có lẽ chúng ta nên cân nhắc. Chính người lính miền Nam bị thương tật trong cuộc chiến chống giữ để bảo vệ miền Nam vừa qua là những người đáng cho chúng ta nghĩ đến trước nhất. Tuy cuối cùng vì nghiệp lớn không thành, nhưng biết bao nhiêu người đã hy sinh cho chúng ta ra được hải ngoại, có được tự do, cơm áo như ngày hôm nay. Nhưng cuộc sống có ý nghĩa là cuộc sống biết chia sẻ hạnh phúc với người khác.

- Với tình nghĩa đó, năm nay, tiếp theo nhiều buổi họp đã được phối hợp giữa hội HO Cứu Trợ TPB-QP/VNCH, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, Trung Tâm Ca Nhạc Asia, đài truyền hình SBTN, với sự bảo trợ của Little Saigon Radio, Ðài Phát Thanh VNCR, Ðài Phát Thanh Bolsa, cùng các hội đoàn, các cơ quan truyền thông, đã đi đến quyết định là sẽ tổ chức một buổi Ðại Nhạc Hội


“CÁM ƠN ANH, NGƯỜI THƯƠNG BINH VNCH- Kỳ II”


- Ngoài trời vào ngày Chủ Nhật ngày 13 tháng 7, 2008 tại Sân Vận Ðộng trường trung học Bolsa Grande, thuộc thành phố Westminster, California tại Sân Vận Ðộng. Buổi Ðại Nhạc Hội này được tổ chức gần với ngày Quân Lực VNCH năm nay nhằm mục đích:

- Vinh danh người chiến sĩ VNCH.

- Gây quỹ giúp Thương Binh và Quả phụ VNCH.

- Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” sẽ có sự cộng tác của hơn 100 MC, ca nhạc sĩ hải ngoại và đặc biệt với sự hiện diện đặc biệt của khoa học Gia Dương Nguyệt Ánh. Suốt chương trình Ðại Nhạc Hội sẽ được đài truyền hình SBTN trực tiếp truyền hình đi khắp Hoa Kỳ và Canada qua hệ thống Sattelite và cable và khán thính giả có thể theo dõi chương trình và ủng hộ hiện kim (donation) qua các số điện thoại toll-free trên màn ảnh truyền hình.

- Năm nay địa điểm ca nhạc ngoài trời sẽ được ban tổ chức che dù bạt để khán giả có thể yên tâm tránh nắng để thưởng thức một buổi chiều ca nhạc hứng thú một cách trọn vẹn. Hiện nay Ban Tổ Chức đã in ra 20,000 vé tham dự với giá tượng trưng là $10.00 mỗi vé. Ðồng hương có thể mua vé ngay từ bây giờ tại tất cả các nhà sách ở Little Saigon, Nam Cali. Ở xa, Quý bạn có thể liên lạc với Ban Tổ chức qua các số điện thoại (714) 721-0758, (714)721-5312 hay e mail: hanhnhonnguyen@yahoo.com, unguyen1939@yahoo.com, hoặc vào thăm trang nhà hocuutrotpb.com

- Các ca, nhạc sĩ muốn đóng góp cho chương trình Ðại Nhạc Hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH- Kỳ 2” xin liên lạc về nghệ sĩ Nam Lộc: (213) 251-3489.

- Ðại Nhạc Hội cứu giúp thương phế binh được tổ chức lần đầu sau bao nhiêu năm chúng ta bỏ nước ra đi như là một thể nghiệm tấm lòng hải ngoại đối với thương phế binh VNCH ở quê nhà. Chúng ta vui mừng vì sự thành công của buổi ca nhạc hai năm về trước, mừng vì lòng người vẫn còn hướng về quê hương, nghĩ đến anh em chúng ta với những khổ đau trầm luân của những người thua cuộc. Xin mời đồng hương tham dự:


“CÁM ƠN ANH, NGƯỜI THƯƠNG BINH VNCH- Kỳ II”

Vào lúc 1:00 PM Chủ Nhật ngày 13 tháng 7, 2008 tại Sân Vận Ðộng trường trung học Bolsa Grande, thuộc thành phố Westminster, California

- Người lành lặn ra đi, không quên người tật nguyền ở lại.

- Hải ngoại không quên tình chiến sĩ - đồng hương nhớ mãi nghĩa thương binh.


Sổ Tay: Cảm Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH
Monday, March 31, 2008

Người Lính Cũ

“Cảm Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH”, chủ đề một đại nhạc hội lần thứ hai do Hội Cứu Trợ TPB & Quả Phụ VNCH và các hội đoàn quân đội cùng Trung Tâm Asia và đài Truyền Hình SBTN đứng ra tổ chức, dự trù vào ngày Chủ Nhật 13 tháng 7 năm 2008 tại sân vận động trường trung học Grande High School.

Chỉ đọc lên dòng chữ “Cảm Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” là đã cảm thấy trong lòng biết bao xúc động. Những người dân miền Nam, một thời lửa đạn chiến tranh mà Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, không ai là không ngậm ngùi nhớ đến ơn nghĩa về cả một thế hệ tuổi trẻ đã mang xương máu để quyết giữ cho được một phần đất Việt Nam cho mọi người dân Việt được hưởng ấm no, hạnh phúc. Nhưng thế hệ trai Việt ấy đã phải ngậm đắng nuốt cay biết bao nhiêu tủi hận, uất ức và nhục nhằn. Tủi hận vì khi cuộc chiến tranh do CSBV gây ra, đang diễn ra khốc liệt thì lại có những kẻ đang tâm ngoảnh mặt làm ngơ trước cuộc chiến tàn khốc này, giả quên đi nguyên nhân gây ra bởi tham vọng của đế quốc cộng sản mà kêu gọi sự phản chiến, hết ca nhạc ru ngủ tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, lại kéo nhau “xuống đường” biểu tình khiến cho hậu phương không lúc nào yên để người lính được yên tâm tiêu diệt giặc Cộng. Họ đã bị “đâm sau lưng” những nhát chí tử.

Ngậm đắng nuốt cay vì bị ngay chính bạn đồng minh mà mình tin tưởng là cùng chung lý tưởng bảo vệ tự do trước làn sóng cộng sản đang nhuộm đỏ thế giới, đã phản bội mình sau khi đã “đi đêm” được với Trung Cộng với hy vọng có được thị trường tiêu thụ là cả tỉ người.

Tủi hận vì bị thua cuộc chiến mà người lính nào cũng còn đầy nhiệt huyết bảo vệ đất nước và dân tộc.

Uất ức vì đất nước bị thực dân và cộng sản lưu giữ trong thế nhược tiểu để luôn bị làm con chốt thí trong bàn cờ chính trị thế giới.

Nhục nhằn vì bị lừa bịp trắng trợn để hàng chục năm phải nhận chịu cảnh tù đầy, lăng nhục dưới đủ mọi hình thức do chính những người cùng dòng máu Lạc Hồng đã bán rẻ lương tri mà cam tâm làm tên lính xung kích cho bọn Nga Cộng, Tàu Cộng, đang tâm hy sinh hai ba thế hệ Việt Nam cho cuồng vọng bá chủ thế giới của quốc tế cộng sản.

Thấu hiểu những đau thương ấy nên người dân miền Nam và cả người dân miền Bắc nữa đã thông cảm biết bao cho lớp người “sinh ra nhầm thế kỷ”. Chuyện này được minh chứng qua sự kiện những đoàn tàu tải tù cải tạo từ Bắc vào Nam của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội khi bị Trung Cộng “dạy cho bài học vong ân bội nghĩa” với nước đàn anh “môi răng”. Ðó là vào những năm 1981, 1982 tù cải tạo được đưa về Nam tiếp tục cải tạo, khi các đoàn tàu chạy qua những ga từ Ðông Hà, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Huế, Nha Trang, Phan Rang... đâu đâu cũng được người dân miền Nam tự động tập trung đón đợi để được tung lên các toa tàu chở tù những chiếc bánh nhỏ nhoi nhưng gói cả một tấm tình to lớn sau 7, 8 năm được nếm mùi chế độ mới, chế độ “giải phóng” con người khỏi cuộc sống tự do, văn minh và no ấm. Ngay chính những vợ con cán bộ ở ngoài Bắc cũng công khai bày tỏ cảm tình sâu đậm với những tù nhân cải tạo khi họ đã ra tiễn đưa những người tù này về Nam (chuyện xảy ra tại trại tù Thanh Lâm, Thanh Hóa vào tháng 12 năm 1981).

Lớp Thương Phế Binh VNCH còn phải chịu nhiều tủi nhục hơn nữa. Ngay buổi chiều cộng sản vào được Saigon và các tỉnh thị miền Nam, người thương binh VNCH đã bị đuổi ra khỏi những bệnh viện bất kể tình trạng bệnh hoạn như thế nào. Hình ảnh những thương phế binh, thương binh VNCH phải lê lết trước cửa bệnh viện vẫn còn hằn sâu trong ký ức của người dân miền Nam. Rồi sau đó, những thương phế binh VNCH bị đẩy hẳn ra khỏi cuộc sống của xã hội mới, không nơi nương tựa, không cả được sự trợ giúp của thân nhân, gia đình vì nhà cầm quyền mới đã cấm cản. Vì cuộc sống, người thương binh VNCH đã phải lê lết trên mọi nẻo đường trước đó mình từng bảo vệ. Họ phải làm đủ thứ nghề bất kể tấm thân tàn phế, để nuôi dưỡng cuộc sống cho mình, có khi cho cả những đứa con còn nhỏ dại, những người vợ còn non trẻ, những cha mẹ già không còn sức lao động kiếm sống. Bao nhiêu khổ cực nhục nhằn khi nước mất nhà tan. Bao nhiêu cô đơn lạc lõng trong suốt những tháng năm chế độ bạo tàn cộng sản ngự trị đất nước và dân tộc.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, lớp người nghĩ đến anh em chiến hữu thương phế binh VNCH trước hết là những người bạn cùng chiến đấu với họ. Nhưng một phần lớn đã bị đưa vào các trại tập trung cải tạo nên chỉ còn một ít người đã thoát ra được nước ngoài. Những cuộc quyên góp hình thành trong nhỏ nhoi khi có khi không của anh chị em chiến hữu cũ vì ngay chính cuộc sống lưu vong của những người này cũng chưa ổn định được. Chỉ từ khi có những đợt tù cải tạo được định cư ở Hoa Kỳ và các nơi trên thế giới, công cuộc trợ giúp thương phế binh VNCH mới trở thành những phong trào, trước hết là từng đơn vị, sau dần ra tới các tổ chức liên quân và lớn mạnh dần lên với tổ chức “Hội H.O. Cứu Trợ TPB & Quả Phụ VNCH” để đến nay thì mọi tầng lớp người Việt hải ngoại đều gắng sức tiếp tay vào công cuộc cứu trợ này. Không chỉ còn trong số những cựu quân nhân mà đã trải rộng ra trong mọi thành phần đồng hương người Việt. Qua sự tiếp tay trực tiếp của đài truyền hình SBTN và Trung Tâm Asia, đồng hương người Việt khắp nơi trên thế giới đã gửi về hàng trăm ngàn cho đại nhạc hội “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” lần thứ I. Ngay cả các bạn trẻ trong Tổng Hội Sinh Viên Nam California cũng sốt sắng trợ giúp vào công cuộc cứu trợ này mỗi khi các cựu quân nhân QLVNCH đứng ra tổ chức cứu trợ.

Ðại nhạc hội “Cám Ơn Anh, người Thương Binh VNCH” lần thứ I đã thu được trên 350 ngàn Mỹ kim, một con số chưa một lần tổ chức cứu trợ TPB/VNCH nào đã thu được. Ðiều ấy đã nói lên được phần nào tâm tình của người dân Việt đối với những người đã vì hạnh phúc, tự do của dân tộc mà hy sinh một phần thân thể, hy sinh cuộc sống, nhận chịu đủ mọi đắng cay, tủi nhục cho cả một thế hệ.

Ước mong kỳ đại nhạc hội lần II này cho thương phế binh VNCH sẽ không chỉ ở con số vài ba trăm ngàn nữa, bởi vì với hàng trăm ngàn thương phế binh VNCH còn chịu đựng cuộc sống bị kỳ thị dưới chế độ cộng sản, thì vài ba trăm ngàn Mỹ kim vẫn chỉ là muối bỏ bể so với những đau thương tủi nhục mà người thương binh VNCH phải nhận chịu ròng rã trên 30 năm nay.

Người Lính Cũ